... Đoàn tàu hú lên một tiếng thật dài rồi từ từ lăn bánh. Nó lại
tiếp tục rúc lên từng hồi như tiếng thét vỡ vụn trong buổi sương sớm làm phá
tan sự yên tịnh của buổi bình minh trong vắt nơi miền quê nghèo của Tỉnh Thái
Bình để lăn bánh vào Nam. Uyên nhoài người với tay chào tạm biệt mẹ già đã hai
mươi tám năm qua sinh ra và nuôi nấng chị: “Con
sẽ làm lại từ đầu. Con ra đi sẽ sớm trở về. Mẹ ở lại nhớ bảo trọng...”- Uyên
nói với theo khi các toa tàu bắt đầu lăn bánh cho một hành trình mới của đời chị.
Mạnh mẽ và kiên quyết, Uyên quệt vội những giọt nước mắt của lần đầu đi xa.
Bóng dáng người mẹ già còm cõi lầm lũi bước theo đoàn tầu từng
bước liêu xiêu vẫn như không muốn rời xa đứa con “bé nhỏ” của mình. Sau khi đoàn tàu đã lăn bánh xa xa, bóng bà chỉ
còn thấy nhỏ xíu như cái chấm đen giữa hai hàng cây cối um tùm.. “Cầu nguyện
cho nó để nó có cơ hội làm lại cuộc đời”- Bà Tâm lẩm bẩm vừa đi vừa cầu
nguyện: “ Xin Chúa chúc lành cho cuộc lên
đường mới của đứa con gái đáng thương. Xin Ngài từng bước ở với nó”. Nói đến
đó, hai hàng lệ từ khóe mắt bà Tâm cứ chực rơi. Thân già một mình, bà lại lầm
lũi lê những bước chân mòn mỏi về lại ngôi nhà lá mà bà đã sống gần nửa đời
mình.
Đêm qua, hai mẹ con đã thức đến gần sáng sau mấy ngày Uyên nói
quyết định của chị với bà. Lúc đầu, bà Tâm cương quyết không cho vì làm sao bà
có thể chịu nổi cảnh cô đơn một thân một mình. Bà chẳng có con trai, mấy đứa
con gái lớn đã đi lấy chồng ở xa. Con Thanh theo chồng vào mãi tận Miền Nam. Hai
vợ chồng con Thu thì cùng dắt díu nhau vào Miền Trung. Con Thảo cũng theo chồng
nó lên Hà Nội lập nghiệp mấy tháng nay. Mà chúng cũng coi thường bà. Chúng đâu
muốn gọi bà Tâm là mẹ từ hồi Uyên chào đời. Họa may chúng nó về nhà vào dịp Tết
và ngày giỗ bố ở từ sáng đến chiều rồi lại đi. Bà Tâm năm nay đã gần bảy chục
tuổi- đã “thất thập cổ lai hy” rồi mà cũng chẳng được yên thân ngày nào. Bà góa
chồng từ lúc mới ngoại tứ tuần, rồi ở vậy nuôi con mãi đến nay với mấy xào ruộng
mùa được mùa mất. Nhưng với cái ăn dù thiếu thốn, bà vẫn trông cậy vào Chúa hằng
ngày dù bà mới chỉ trở về với Chúa sau ngày chồng qua đời. Dù là đạo theo nhưng
không ngày nào bà Tâm bỏ Lễ. Những ngày đau ốm, bà cũng cố gắng đến nhà thờ. Bà
tựa nương cuộc đời bà vào tình thương và sự quan phòng của Chúa. Kể cả đứa gái
út ngổ ngáo này, bà vẫn hằng ngày cầu nguyện xin Chúa dắt nó trở về con đường
lành. Thân già mà bà không quản ngại một nắng hai sương với công ruộng, suốt
ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, cầu mong cho được mùa để nuôi hai mẹ
con, rồi còn chút chút nào tằn tiện để lại làm vốn liếng cho Uyên sau này.
Từ ngày Uyên bước vào thế giới người lớn, thì nó đã bị tổn
thương sâu đậm trong chính trái tim thơ ngây của nó. Mọi người dè bỉu mẹ con
nó, nói nó là đứa không cha. Uyên thương mẹ già đã vất vả cực nhọc một thân một
mình mà người ta còn độc mồm độc miệng xỉa xói những lời ác độc. Từ suy nghĩ ấy,
nó trở nên hận mọi người, xa lánh tất cả. Nét mặt ngây thơ dịu dàng thời ngày
nào giờ đây trở nên cau có, dễ nổi giận bất cứ lúc nào. Uyên sống bất cần đời
và chẳng ai hiểu nổi nó. Thấy bộ dạng nó như thế, mọi người càng dè bỉu và
buông những lời độc địa hơn khiến bà Tâm đã khổ lại càng thêm đau lòng. Mấy đứa
con lớn cũng bất mãn không chấp nhận Uyên là đứa em út của chúng nó. Rõ khổ,
ngày chồng bà đi ra mặt trận rồi mất xác trên chiến trường, sau một thời gian bà
sinh Uyên. Cái miệng thế gian mà, tò mò xăm soi hết cả mọi ngõ ngách đời người
ta. Họ cho rằng bà là kẻ trắc nết. Thế rồi đứa con ngày ra đời đã không biết mặt
cha, lại còn không đón nhận được tình yêu thương của chính các chị ruột của
mình- điều mà lẽ ra một đứa út mồ côi cha như nó đáng phải được hưởng nhiều
hơn. Bà Tâm cắn răng chịu đựng dư luận đàm tiếu của hàng xóm và sự ghẻ lạnh của
con cái để cố gắng nuôi Uyên ăn học cho bằng bạn bằng bè. Uyên hiểu tất cả tình
thương ấy. Nó càng xót xa khi thấy nét buồn trên mắt mẹ. Một ngày, Uyên bỗng trở
thành một con người khác sau bao nhiêu những dồn nén từ tuổi thơ cho đến nay.
Người ta đã không cho mẹ con nó cơ hội để được sống bình yên trong cái làng quê
nghèo này. “Được rồi, nếu thế thì tôi sẽ cho các người thấy cái giá phải trả của những
cái lưỡi không xương”- Uyên nghiến răng lại, thầm nói trong lòng lời đắng
đót ấy.
Uyên đã bước vào tuổi mười tám, bỏ học ngang xương, tập họp thêm
mấy đứa con trai quậy phá trong làng hay cũng mang tâm trạng bất mãn nào đó và rồi
thành lập nhóm “Hippy”. Chúng nó tôn Uyên là trưởng nhóm với cái tên “Uyên đại
ca”. Cả nhóm quyết phải trả công lý cho những người bị áp bức trong đó có mẹ
con Uyên. Nhóm bỏ học, đi bụi, ban ngày lêu lổng đi đây đi đó, tối đến cầm những
khúc côn trên tay để hành động theo lệnh của “Uyên đại ca”. Trước đây, vùng quê
này chẳng bao giờ có tệ nạn xã hội, không chốn ăn chơi, tụi mới lớn có muốn đi
chơi cũng chẳng có chỗ nào chứa. Tối đến cứ bảy giờ là nhà thờ ngân lên một hồi
chuông thật dài nhắc nhở đã đến giờ kinh tối. Giờ ấy đường chẳng một bóng người.
Hết giờ kinh tối mới lại có tiếng ồn chút chút rồi im bặt cho người ta ngủ để lấy
sức ngày mai vật lộn với đồng ruộng. Ngày ấy còn nghèo nhưng lại lành mạnh. Vài
năm gần đây, bọn trẻ đi xa xứ lập nghiệp mang văn minh lẫn những tệ nạn xã hội
mới về với vùng quê này.
Ở cái làng này nhỏ quá, ai ai trong xóm có chuyện gì người ta
cũng biết hết. Nhà này hôm nay ăn cái gì người ta còn biết rồi bàn ra tán vào nữa
là. Nhà ai sắm được cái giường hay cái tủ mới là cả xóm đến chia vui. Những
chuyện nhỏ nhặt như thế người ta còn đủ điều mà nói huống hồ câu chuyện hằng
ngày đi về của Uyên. Sáng, trưa, chiều, tối, lúc nào hàng xóm cũng lườm nguýt chì
chiết mẹ con Uyên: “Hay gì thứ con rơi con rớt. Mẹ nào rồi con đấy cho mà xem”.
Bà Tâm đón nhận tất cả những lời xỉa xói ấy bằng một sự im lặng can đảm. Quả vậy
nếu không can đảm thì chắc bà đã bỏ xứ này đi từ lâu rồi. Quê có cái sự chân
tình nhưng cũng tọc mạch lắm điều. Nhất là gia đình nào có chuyện chẳng lành
thì không biết cái tiếng xấu ấy còn lưu truyền đến đời kiếp nào nữa. Thật đúng
như cha ông vẫn nói: “Thương nhau thì củ ấu cũng tròn, ghét nhau thì bồ hòn
cũng méo”.
Thấy đứa con gái nhỏ yêu quý bỗng thay đổi đến lạ thường, bà Tâm
đau lòng lắm nhưng người mẹ ấy quá hiểu trái tim của nó. Bao nhiêu tình thương
bà dành cho nó nhiều hơn. Nhưng dù thương bao nhiêu thì những lời mỉa mai kia vẫn
như những nhát dao đâm vào trái tim thơ ngây của nó đến rướm máu. Nó không chịu
nổi những ánh mắt và lời gièm pha mà người ta dành cho hai mẹ con nó. Nó muốn
hét lên, muốn bước ra khỏi con người dịu hiền được hưởng “gien” từ mẹ để trở
thành một kẻ giang hồ đúng nghĩa. Con bé thùy mị có đôi mắt màu hạt dẻ với mái
tóc dài óng mượt bỗng biến thành một “đứa con trai”. Mái tóc mà mọi người thầm
ước ấy Uyên đi cắt ngắn rồi nhuộm xanh xanh đỏ đỏ. Dáng đi thướt tha ngày nào
giờ đây thành ngông nghênh bất cần đời. Cái mặt nó vênh vênh váo váo như muốn
thách thức tất cả. Nó bận quần áo y như con trai. Trái tim người mẹ đã đau đớn vì
chồng mất, con cái bỏ đi xa nay lại càng đớn đau hơn trước sự “lột xác” của con
đứa con gái nhỏ còn lại mà bà rất yêu quý. Trái tim người mẹ mách bảo cho bà biết
những diễn biến trong tâm lý của đứa con gái tuổi mới lớn. Bà chẳng biết làm gì
hơn ngoài lời cầu nguyện tha thiết xin Chúa thương xót Uyên. Bà không bao giờ mất
niềm tin vào một ngày nào đó Thiên Chúa
sẽ làm điều kỳ diệu mà Người muốn nơi con bà.
Trong hơn mười năm, Uyên ra tù vào khám không biết bao nhiêu lần
vì tội đánh lộn gây rối trật tự xóm làng. Chẳng mấy ngày người ta lại kéo đến
nhà bà Tâm mắng vốn: “Bà không biết dạy
con bà à! Con gái con đứa suốt ngày lêu lổng rồi đi đánh nhau. Oan khiên đây
mà”. Có ngày người ta không thấy bà ờ nhà, họ kéo nhau ra đến ruộng rồi mắng
nhiếc bà. Những lời ấy như con dao găm đâm thấu trái tim người mẹ già tội nghiệp.
Bà Tâm thân cò một mình chắt chiu với cuộc sống ngày càng kham khổ hơn. Cả tuần
lam lũ vất vả, cuối tuần lại đón xe cả trăm cây số để đi thăm nuôi nó. Dầu đường
xa, tốn tiền mất sức nhưng vì tình yêu thương, bà vẫn muốn sự hiện diện ấy sẽ
làm trái tim nó lay động vào một ngày gần đây. Bà Tâm không bao giờ mất niềm hy
vọng dẫu rất mong manh ấy. Đêm nào Uyên cũng về khuya, bà Tâm lại ngồi
bó gối bên bàn thờ thầm thĩ nguyện xin cho đứa con gái giờ đây không cỏn biết đến
sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời nó. Đã biết bao đêm, bà quỳ bên bàn
thờ, những giọt nước mắt mặn đắng rơi lặng lẽ vào đêm sâu hun hút cô đơn như cuộc
đời của người mẹ xấu số ấy.
Uyên biết điều đó. Sống trong trại cải tạo khiến trái tim nó
cũng thổn thức nhiều. Mỗi lần mẹ đến thăm, nó tỏ ra bất cần, nhưng khi bóng
dáng còm cõi ấy khuất đi, Uyên lại đau đến quặn lòng. Nó biết nó làm như thế sẽ
chỉ thêm đau lòng mẹ mà thôi và mất cả tương lai đời mình, nhưng sao bảo quay
trở về làm lại cuộc đời thì nó chẳng làm được. Cái mâu thuẫn làm khổ tâm lòng
người nhất là khi người ta biết phải làm gì mà lại không làm được. Hết cải tạo
rồi lại về… Cũng chứng nào tật ấy… Ban ngày nó là một con người khác, nhưng đêm
đến, nó trở về với cõi lòng trong sự ân hận day dứt khôn nguôi. Bạn bè đồng
trang lứa đã đi lấy chồng, đứa nào cũng có việc làm ổn định, yên bề gia thất,
được nghe những tiếng bi bô gọi mẹ ơi ời. Là phụ nữ, nó cũng thèm lắm có một
bóng dáng nào đó che chở, thèm được nghe tiếng “mẹ” thân thương lắm chứ.
Nhưng... có ai hiểu được nỗi lòng của nó!!!
Nhưng... làm sao nó có thể cứ mãi làm cho gánh nặng trên vai mẹ
oằn hơn mãi? Nghĩ thế, nó mạnh mẽ đưa ra một quyết định cũng táo bạo không kém
quyết định đi bụi năm nào. Nhưng quyết định này là quyết định không phải của lứa
tuổi ngông nghênh mới lớn nữa, mà là quyết định của một con người đã thực sự
trưởng thành, chín chắn hơn trong bước đi của mình. Đã lâu, rất lâu rồi Uyên chẳng
đoái hoài gì đến nhà thờ, bỏ luôn việc cầu nguyện. Nhưng đêm nay, nó đang nằm
miên man suy nghĩ. Nó nhớ đến những việc làm vô duyên của mình và nhóm bạn hồi
chiều, rồi lời nói của người cha dạy con mình sau khi chứng kiến nó cùng nhóm bạn
đánh lộn với nhóm kia. Ông nói: “Con ạ!
Con không được ghét họ nhưng ghét lối đi của họ. Mình cùng cầu nguyện cho những
con người đó được ơn Chúa mà quay trở về với Ngài.”. Ồ, cầu nguyện ư? Hồi
nhỏ mỗi tối mẹ đếu dạy nó cầu nguyện. Lúc ấy nó thấy Thiên Chúa là một Đấng vô
cùng cao cả quyền năng. Mẹ bảo Chúa có thể làm tất cả. Ồ, vậy tại sao nó lại
không nói với Người về quyết định mới này. Một mình nó có thể sẽ không làm nổi
vì mặc cảm, nhưng với Chúa, mẹ vẫn bảo Người có thể làm được những điều tuyệt
diệu kia mà. Nghĩ thế, Uyên ngồi bật dậy. Trong đêm vắng, nó nghe tiếng thở nhẹ
của mẹ. Chắc mẹ đã ngủ say sau một ngày vất vả trên cánh đồng rồi thêm thời
gian ngồi chờ đợi nó nữa. Nhưng trên khoé mắt nhắm nghiền của mẹ những giọt nước
mắt như vẫn đang rơi…Chiếc đồng hồ cũ treo tường kỷ niệm của bố nó để lại gõ mười
hai tiếng khuya khoắt nghe sao thật sâu lắng. Nó rón rén đi ra nhà ngoài, với
tay lên bàn thờ cầm cây nến nhỏ cùng cái hộp quẹt, rồi lại nhẹ nhẹ trở lại giường.
Nó thắp nến, ngồi bó gối, nhìn vào ngọn nến cứ cháy lụi dần. Từng giọt nến lặng
lẽ rớt vào đêm sâu. Nó thấy cây nến nhỏ kia sao giống cuộc đời của mẹ nó quá.
Bà cũng hy sinh cả cuộc đời cho nó. Mỗi giọt nến rớt xuống là một phần đời mất
đi. Nó cứ ngồi yên như thế cho đến khi cây nến chỉ còn một nửa. Ồ, mau tan
chảy thế sao? Nếu nó không mau quay trở lại thì lẽ nào... không còn kịp nữa!
Nghĩ thế, nó bật khóc. Những giọt nước mắt ở đâu cứ tự do rơi xuống mặn đắng bờ
môi. Đã lâu lắm rồi nó chẳng thể rơi giọt lệ nào. Nhưng sao đêm nay, chỉ ngồi
nhìn ngọn nến, nghĩ đến mẹ, nó lại khóc như chưa bao giờ được khóc. Con người
ta có thể vững mạnh bất cứ lúc nào trước mọi tình huống, nhưng chỉ cần nghĩ đến
mẹ là trái tim dù sắt đá cũng trở nên yếu mềm. Nó thương mẹ quá đỗi. Mẹ như
thân nến bền bỉ kia chẳng nghĩ đến sự tiêu hao mà cứ mãi khoe sáng để cho đời
nó được êm ấm. Rồi sẽ đến lúc ngọn nến ấy sẽ vụt tắt chẳng còn gì. Lúc ấy, nó sẽ
nhờ đến ánh sáng nào đây?
Ánh nến sáng cũng gợi cho nó nhớ cái ngày còn bé nó được bà Quản
chọn vào đội hoa của nhà thờ. Hồi ấy đứa nào được chọn thì thích lắm. Lúc dâng
nến, gợi cho nó nhiều xúc cảm hơn hết. Nó tưởng tượng Thiên Chúa đang hiện diện
trong tia sáng kia, Người như đang muốn nói với nó điều gì đó. Đêm nay, tia
sáng le lói kia cũng như đang muốn ngỏ với nó một điều. Nó hiểu Chúa muốn nó
phải làm gì. Nó còn bé bỏng gì nữa đâu chứ. Đâu thể mãi là gánh nặng cho mẹ.
Đâu thể cứ để những lời xì xầm và những ánh mắt kia đè nặng lên cái thân thể gầy
gò tiều tụy của mẹ nó mãi.
Nó có ý định làm lại cuộc đời.
Một buổi tối, nó không đi
chơi như mọi hôm, không hẳn vì thấy dáng gầy gò của mẹ tựa cửa tay cầm cái quạt
nan hay ngồi cầu nguyện trong căn nhà đã cũ nát từ ngày bố mất chẳng ai sửa chữa
cho để rồi quanh năm nơm nớp lo sợ gió bão chờ đợi, mà vì trong lòng nó cảm thấy
có điều gì đó thổn thức lắm. Bà Tâm thấy hôm nay con gái bà khác lạ, bà lại gần,
hỏi nhẹ:
-
Hôm nay con gái mẹ có chuyện
gì hả?
-
Không- Nó đáp cụt lủn y
như mái tóc tém ngắn cũn cỡn trên đầu.
Giọng bà Tâm nhỏ lại:
-
Tại mẹ thấy con không như
mọi hôm.
-
Không muốn đi nữa- Vẫn cách
nói không đầu không đuôi ấy, Uyên đáp lại.
-
Hôm nay con có tâm sự gì
phải không?- Bà Tâm vẫn kiên nhẫn với giọng nhỏ trầm.
Dường như đã lâu, rất lâu rồi nó không ngồi bên mẹ. Có chăng chỉ
nói vài câu xã giao cụt lủn rồi lại đi. Là người mẹ nghèo quê mùa nhưng bà Tâm
hiểu tâm lý con gái mình. Bà nhận thấy gần đây con bà có biểu hiện khác. Nét mặt
nó không còn ngổ ngáo như trước kia. Dù vẫn trong bộ đồ bụi bặm ấy, vẫn cái đầu
như con trai ấy nhưng trông nó lặng lẽ hơn. Mấy ngày nay, nó ở nhà phụ mẹ cắt
lúa, làm cỏ. Nó ít ra ngoài và dường như chẳng muốn tiếp xúc với bất cứ ai.
Lòng bà Tâm mừng thầm, chắc hẳn Thiên Chúa đã nhậm lời bà nguyện cầu.
-
Mẹ.., con muốn… làm lại cuộc
đời- Cố gắng mãi Uyên mới nói được điều muốn nói.
Nói đến đây, cổ họng nghẹn ứ, Uyên bật khóc. Đứa con gái đã từng
làm cho những người tiếp xúc phải sợ hãi giờ đây đã biết khóc. Bà Tâm ngồi xích
lại gần con hơn, đưa tay ôm nó rồi để cho cái đầu xanh xanh đỏ đỏ ấy tựa vào
vai mình. Đối với bà nó vẫn là đứa con nhỏ ngày nào. Trong vòng tay mẹ, Uyên cũng
cảm nhận được hơi thở ấm áp như những ngày thuở nhỏ. Hơn mười năm qua nó không
tựa vào lòng mẹ mỗi khi bị bạn bè chửi rủa, khinh bỉ nó là đứa không cha. Có lẽ
vì vậy mà việc nó trở nên một người “khác” đã làm mẹ buồn. Giờ đây khi nỗi cô đơn
xâm chiếm tận cõi lòng, khi cảm thấy vô cùng chán chường, Uyên bỗng tìm thấy
bình yên nơi lòng mẹ. Đã lâu lắm rồi Uyên mới thể hiện tình cảm yêu thương dành
cho mẹ và cũng rất lâu rồi bà Tâm mới có cơ hội gần con. Hai mẹ con hạnh phúc
trong sự bình yên hiếm có này. Đêm tĩnh mịch đến nỗi có thể nghe thấy cả tiếng
thở nhẹ của hai con người một già một trẻ. Đêm khuya mang cả tiếng gió lùa qua
kẽ lá lay nhẹ sợ mùa thu thức giấc và có cả tiếng muỗi vo ve tìm thức ăn khi
đêm xuống. Hai mẹ con tuy chẳng nói thêm được gì nhưng cả hai đều muốn giữ cái
khoảnh khắc tuyệt diệu hiếm có này. Trong vòng tay mẹ, Uyên khóc như chưa bao
giờ được khóc.
Một lúc sau, Uyên mới bớt xúc động, nó lên tiếng:
-
Con chán cuộc sống này lắm
rồi..... Con thấy mình thật là tồi tệ, chẳng làm được gì giúp mẹ, lại chẳng có
ích gì cho ai. Con đã tự phá hoại đời mình rồi.
Nghe đứa con bà đã cất công gần ba mươi năm cưu mang và nuôi nấng
nói những lời đó, lòng người mẹ như cất được một gánh nặng vì cuối cùng bà đã
mòn mỏi chờ đợi câu nói này biết bao nhiêu năm. Thiên Chúa Tối Cao đã không để
bà mất hy vọng. Dù khó khăn, dù khổ cực, dù ở nơi chẳng có chút hy vọng thì bà Tâm
vẫn cậy trông và tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa như đứa bé thơ bình yên khi
được nép mình trong vòng tay mẹ nó. Dẫu cho thời gian có mòn mỏi vẫn không thể
làm lay chuyển niềm tin mạnh mẽ kiên cường ấy vào Thiên Chúa. Dù cho những người
hàng xóm có lắc đầu ngao ngán với sự chờ đợi ngày đổi đời của Uyên- đứa con hết
thuốc chữa, thì bà Tâm vẫn tin ngày hạnh phúc sẽ đến với bà không xa đâu.
Bà vẫn im lặng trong niềm hạnh phúc vô bờ. Lúc này bà muốn nghe
tiếng lòng của Uyên để con gái bà có thể trút hết nỗi niềm của nó.
-
Mẹ ! Con xin lỗi mẹ, con
hiểu biết bao năm qua mẹ đã quá khổ vì đứa con gái bất hiếu này. Con đã chẳng
ngày nào làm cho mẹ hạnh phúc.
Bà Tâm xoa
đầu con gái, cười nhẹ.
-
Con nhỏ này, nói gì linh
tinh vậy, Mẹ quên hết những tháng ngày qua rồi. Mẹ chỉ còn nghĩ đến
hạnh phúc này thôi. Bây giờ mẹ đang rất hạnh phúc ngồi bên con, nghe con nói những
lời này. Con gái nhỏ biết không, mẹ đã chờ đợi rất lâu, mẹ cầu xin Chúa và tin
có ngày mẹ sẽ được nghe lời này và quả thật Ngài đã quá thương mẹ đó nhỏ à!.
Ánh điện nhỏ từ bàn thờ soi lờ mờ, Uyên thấy được niềm vui trong
đôi mắt mẹ. Một niềm vui rất lớn hiện trên khuôn mặt da đã nhăn nheo, với màu
tóc gần như bạc trắng lúc nào cũng búi tó củ hành vì lam lũ với đồng ruộng, suốt
ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để kiếm cái ăn nuôi hai mẹ con. Uyên bỗng
thấy xót xa vô cùng. Mà sao đến bây giờ nó mới chợt nhận ra khi đã bỏ đi gần nửa
đời người. Có quá muộn để làm lại cuộc đời không? Mọi người xung quanh có chấp
nhận nó không ? Nó cần sự tha thứ của mọi người. Nó sợ những ánh mắt dè bỉu đối
với hai mẹ con nó suốt bao năm qua. Từ ngày còn bé họ đã khinh chê, miệt thị
gia đình nó. Mà sao mẹ vẫn hạnh phúc nhỉ? Nó tự hỏi và hiểu ra niềm tin vững mạnh
ấy chỉ có được nơi Thiên Chúa. Mỗi đêm,
nó cứ đi đến gần sáng mới lò mò về nhà. Lúc ấy chuông nhà thờ đã báo, bà Tâm với
cái dáng gù gù tay cầm chiếc đèn bão lò dò đường đi bộ cả gần ba cây số để đến
nhà thờ. Tối đến lại đi đọc kinh với các ông bà trong xóm. Ôi! Sao bao năm qua
mà Uyên lại không có được niềm tin ấy để có thể cùng bước với mẹ những bước đi
của niềm tin?
Bầu khí
im lặng chợt bị đánh tan khi Uyên đề nghị:
-
Mẹ, con sẽ làm lại cuộc đời,
nhưng nếu ở đây thì khó quá. Con thấy mình khó có thể thoát ra khỏi dư luận được…
Con rất muốn ở bên mẹ để phụ giúp mẹ. Mẹ đã già yếu rồi, sao con cảm thấy ngại
quá!
Bà Tâm hiểu thấy con mình nên không bất ngờ với lời đề nghị ấy. Bà
không cản ngăn vì bà biết những rào cản của dư luận xã hội có khi không làm cho
con người ta có cơ hội để làm lại cuộc đời. Và với Uyên, bà biết tính con gái
bà, nó đã muốn điều gì thì quyết phải làm cho được. Bà hỏi nhẹ :
-
Ra đời con sẽ gặp nhiều khó
khăn đó nhỏ à!
-
Mẹ ạ ! Con lớn rồi. Con có
thể tự lo cho mình, những năm tháng sống đời giang hồ con đã biết cách tự bảo vệ
mình. Mẹ cứ yên tâm ở nhà và tiếp tục cầu nguyện cho con.
Thấy đêm càng tĩnh lặng hơn, chắc đã khuya lắm rồi, bà Tâm đề
nghị:
-
Thôi khuya rồi, mẹ con
mình đi ngủ nhé, mai mình sẽ bàn tính tiếp.
Hai mẹ con cùng đọc kinh tạ ơn Chúa rồi lên giường.
Nói được những điều giấu kín trong lòng
bấy lâu nay, Uyên thấy nhẹ cả người. Và hơn nữa, sau những lời thú tội ấy, nó lại
thấy được nụ cười mãn nguyện của mẹ. Tình thương ấy chẳng bao giờ cạn dẫu cho
nó đã đi hoang bao phen ngụp lặn trong tội lỗi.
Đêm đó hai mẹ con ngủ chung giường. Có lẽ
đã hơn mười năm qua, hôm nay Uyên mới nghe lại nhịp thở khe khẽ của mẹ, ngửi được
cái mùi hanh nắng lúa thơm của đồng ruộng quê nhà nơi bộ quần áo mẹ đang mặc.
Thật ấm áp trong tình yêu của mẹ. Uyên chợt nghĩ về tương lai. Nó hạnh phúc với
những gì vừa mới xảy ra tối qua. Cả đêm Uyên không thể chợp mắt, nó nghĩ đến
tương lai, nghĩ đến đời mẹ. Mãi gần sáng tiếng chuông vọng xa từ nhà thờ. Mẹ nhẹ
nhàng lật tấm chăn ra, đắp đến tận cổ cho đứa con gái yêu quý của bà. Thật ra
Uyên đã tỉnh giấc từ lúc nào. Niềm hạnh phúc khiến Uyên thao thức. Nó nhìn theo cái dáng gầy còm của mẹ liêu xiêu khe khẽ đi ra sân để đánh răng rửa mặt, thương mẹ
quá. Uyên bỏ chăn, tháo màn rồi ra sân theo mẹ.
Nghe tiếng động, bà Tâm quay lại. Trông thấy Uyên, bà nói:
-
Con dậy sớm thế? Đêm qua ngủ muộn còn mệt mà, vô ngủ
tiếp đi con gái.
-
Không, Uyên mạnh mẽ. Hôm nay con sẽ đi lễ và xưng tội.
Nghe con nói thế, bà Tâm mừng quá chẳng
nói được câu nào. Hai mẹ con vui mừng nhanh nhẹn rồi
đi đến nhà thờ.
Thánh lễ hôm ấy, Cha đọc đoạn Tin mừng về
người con hoang đàng. Hình ảnh đứa con trở về
cứ đánh động Uyên mãi. Sau lễ, Uyên xin được lãnh nhận bí tích hòa giải. Lời khuyên
của vị linh mục càng thêm động lực và niềm tin cho Uyên quyết định làm lại cuộc
đời. Uyên nhớ mãi lời Cha : “Thiên Chúa
luôn yêu thương và chờ đợi con trở về, Ngài không bao giờ mất kiên nhẫn với ai
cả. Ngài là Cha yêu thương luôn dang rộng vòng tay chờ đón con. Con biết, đối với
Chúa, Ngài quý một con chiên bị đi lạc hơn là chín mươi chín con chiên kia lành
lặn…”
Từ hôm đó, Uyên không đi sớm về khuya nữa.
Cô từ giã nhóm bạn giang hồ và khuyên bảo chúng nó từ nay hãy đổi đời để sống
có ý nghĩa hơn. Mất đi “đại ca” nhóm Hippy cũng dần dần giải
tán. Xóm làng lại yên ổn. Uyên cũng đi nhuộm lại mái tóc, dáng đi cũng nhẹ nhàng hơn…. Ở nhà, ban
ngày Uyên ra đồng giúp mẹ, tối đến hai mẹ con cùng ngồi bên bàn thờ đọc kinh. Uyên
cảm thấy bình yên hạnh phúc ngần nào, cái hạnh phúc mà chẳng
gì có thể đánh đổi được, cái hạnh phúc mà nó đã vô tình đánh mất
hơn mười năm qua. Bây giờ chỉ có niềm tin và hy vọng mới có thể
giúp Uyên làm lại cuộc đời.
Hạnh phúc bên con chẳng được bao lâu, bà
Tâm lại phải xa con vì tôn trọng quyết định của con. Uyên muốn ra đi. Uyên biết rõ cái làng còn mang nặng tư tưởng phong kiến này vẫn
chưa chấp nhận nó. Dư luận không cho Uyên cơ hội để có thể hoán cải. Uyên định
sẽ ra đi một thời gian, sau khi trở thành một con người thực sự, cô sẽ trở về để
chăm sóc người mẹ già. Uyên hiểu bây giờ cô chỉ có thể lấy lại niềm tin của mọi
người bằng việc phải cố gắng đổi đời. Cô sẽ lên đường, quên đi chặng đường đã
qua để lao mình về phía trước, không ngoái đầu nhìn lại ….
… Kể đến đây, cô gái lau nước mắt:
-
Dì ơi! Uyên chính là con, là người mà Dì vẫn gọi vẫn
đi với Dì đó.
Tôi ngờ ngợ hiểu chuyện. À, thì ra cô
đang kể về cuộc đời của chính cô. Hay quá, một bài học quý giá cho tôi
trong công tác Tông đồ của người tu sĩ. Cô gái ngồi trước mặt tôi có dáng người
nhỏ nhắn, chạc bốn mươi, trông giống như một người tu vậy. Nghe
giọng nói nửa Nam nửa Bắc của cô, tôi không thể đoán biết cô là người gốc ở
đâu. Chỉ cảm phục sao cô gái ấy chỉ mới quen với mình mà chân tình quá. Cô
không ngại bộc bạch cả cái quá khứ đen tối của đời mình cho tôi nghe.
Tôi bất chợt hỏi:
-
Rồi sau khi xa quê hương, chị Uyên đã sống như thế
nào?
Cô gái giọng trầm lại:
-
Sau khi ra đi, con vào Sài Gòn tự tìm việc làm. Cũng rất may mắn, con
gặp được các Dì của Tu hội Bác ái Vinh sơn. Các Dì rất yêu thương đã cho con ở
trong Dòng để đi làm. Ngày nghỉ con được theo các Dì đi làm việc thiện nguyện ở
nhiều nơi.
-
Rồi còn mẹ?- Tôi hỏi.
Cô gái vẫn với cái giọng nửa Nam nửa Bắc
ấy rất chân thành:
-
Lúc sống tá túc trong Dòng, con có dịp tâm sự với Dì
Alphong. Dì nói con hãy đưa mẹ vào Nam này sống để hai mẹ con được gần nhau.
-
Bây giờ sao chị Uyên lại về đây?- Tôi thắc mắc.
-
Dạ, ba năm sau mẹ qua đời khi con chưa kịp đưa mẹ vào. Lúc đầu con rất hối hận vì lời hứa
trở về chưa thực hiện được. Nhưng dù con không được
trở về với mẹ bằng đôi chân như lời
đã hứa, nhưng
Chúa đã làm cho con thực sự trở về bằng con tim, bằng cả cuộc sống sau này của con. Chắc mẹ con giờ này hạnh phúc mãn nguyện lắm
đó.
-
Rồi sau đó?- Tôi cầm bàn
tay Uyên muốn xoa dịu bớt nỗi mất mát của cô.
-
Sau đó các Dì đã giúp đỡ
con để lo ma chay cho mẹ rất chu đáo. Con thật may mắn khi gặp được một chị góa
chồng đã gần hai chục năm. Chị ấy rất hiểu và yêu thương con. Chị ấy đã cưu mang
con suốt thời gian qua. Con về sống với chị từ đó
cho đến nay. Ngoài giờ phụ giúp quán cơm cho bé cháu con của chị thì con đi làm
việc thiện nguyện Dì ạ! Con nghĩ đó chính là cách để con đền bù lại những thiếu sót trong quãng đời đã qua. Dì biết không, cuộc đời con
có được ngày hôm nay cũng là nhờ niềm tin nơi mẹ của con. Con tin ở trên Trời, mẹ
cũng đang nhìn xuống để cầu nguyện cho con mỗi ngày.
Nhìn ánh mắt chị như còn điều gì đó ngổn ngang, tôi nhìn sâu vào
ánh mắt đang nhìn vào cõi xa xăm của chị:
-
Hình như trong chị còn có
một điều gì đó khắc khoải?
-
Dạ! Uyên ngậm ngùi. Con thấy
mình có lỗi nhiều với mẹ lắm Dì ạ! Con mong được về tạ lỗi với mẹ dù chỉ là một
lần trong đời. Nhưng... - Nói đến đây Uyên lại xót xa- con vẫn cảm thấy ngại
ngùng lắm.
Người con gái ấy, tôi cũng chỉ mới biết khi về với cộng đoàn ở
vùng quê nghèo này. Cô là tình nguyện viên, chở tôi đi trao Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt ở mãi tận khu đồi
xa xôi. Lúc đầu tôi không dám hỏi về
thân thế của cô. Chỉ biết cô hiện đang sống với một người chị em kết
nghĩa. Còn gia đình ruột thịt của cô thì tôi chẳng nghe nói. Từ ngày tôi chuyển
về cộng đoàn này, thấy cô hay qua Tu viện, khi thì dâng bông hoa cho Đức Mẹ,
lúc thì giúp sơn sửa cái hàng rào xung quanh nhà nguyện, mùa Noel thì lại trang trí hang đá cho Chúa Hài Đồng. Thỉnh thoảng lại thấy cái
dáng bé nhỏ ấy sang sân tu viện nhổ cỏ quét sân. Khi có công tác tông đồ, cô lại
cùng các Dì hăng say đi phát quà cho người nghèo.
Đoạn đường từ đồi cao su về đến Tu viện cũng khá xa. Vào mùa này
ban sáng trời rất lạnh. Chiếc xe máy cứ từ từ lăn bánh trong câu chuyện cuộc đời
của cô. Tôi ngỡ ngàng như đang đi lạc trong câu chuyện cổ tích thần tiên hay được
nghe bà kể hồi nhỏ. Sương xuống khá lạnh, kéo chiếc khăn choàng kín cổ, tôi mỉm
cười đón một ngày mới trong niềm hạnh phúc tuyệt diệu chưa từng có từ trước đến
nay. Tôi thầm cảm phục cô gái ấy quá. Một con người trông bé nhỏ yếu đuối nhưng lại mạnh mẽ
và kiên quyết hơn ai hết. Cảm ơn tình thương bao la, đức tin vững mạnh của người
mẹ cao cả đã giúp cho một lời hứa được thực hiện. Vâng, tôi tin dù Uyên không
trở về bằng đôi chân nhưng cô đã trở về bằng một chuyến hành trình cả cuộc đời
mình.
... Chuyến tàu từ Nam ra Bắc đỗ ngay trước sân ga. Có hai bóng
dáng con người nhè nhẹ bước về phía bên kia đường, ngoắc một chiếc ta-xi, chỉ lối
về hướng đi Thái Bình, rẽ vào phía nghĩa trang. Trên tay, cô gái cầm bó bạch hồng,
bước từng bước và dừng lại bên một ngôi mộ còn mới. Run run nhẹ nhàng, cô đặt bó hoa
trên nấm mồ, khuỵu gối xuống rồi òa khóc trong tiếng nấc: “Mẹ, con đã về....”