TRỞ VỀ
(Viết sau những ngày Tĩnh Tâm, tháng 8.2022)
Kỷ niệm 17 năm Khấn Dòng (22.8.2005- 22.8.2022)
Trở về là cơ hội để thấy được chính bản thân mình của ngày
hôm qua, của những ngày xưa ấy, để thấy lại sự khởi đầu với những bước chân hồ
hởi, để tìm lại mình trong những dĩ vãng của ngày hôm qua nhưng chẳng nhạt
nhòa…
Tôi trở về Tu viện chính
sau một năm miệt mài với sứ vụ. Hạnh phúc nhất là dịp tĩnh tâm năm này. Mẹ Hội
dòng đã sinh ra tôi trong dòng máu thiêng liêng từ 25 năm qua, và nay tôi được
về với Mẹ để được yêu thương vỗ về. Cũng có nhiều dịp tôi trở về trong năm
nhưng vội vã công việc rồi đi liền.
Trời tháng Tám với những cơn bão dai dẳng, mưa suốt tuần. Nhưng cũng nhờ thế mà tiết trời lành lạnh giúp chị em dễ tịnh tâm cầu nguyện hơn. Tôi xin phép được ở khu An dưỡng phía sau, để giúp cho sức khỏe tốt hơn vì luồng không khí tự nhiên, và cũng có thể ngắm nhìn cây cỏ hoa lá và ít tiếp xúc, để có thể cầu nguyện dễ dàng hơn.
Khu vườn phía sau rộng bạt
ngàn với một màu xanh của vườn tràm non, xa xa những người nông dân đang cặm cụi
bẻ đọt. Tu viện rộng lớn im lìm nhường bầu khí thinh lặng cho tuần tĩnh tâm. Tiếng
mưa cứ rơi tí tách đều đều bên hiên hành lang. Gió lạnh nhè nhẹ thổi vào hồn khiến
những ký ức xưa lại hiện về.
Đã bao lâu rồi tôi không
có được khung cảnh và bầu khí tuyệt vời này, có lẽ trên 15 năm, thời còn Nhà Tập
thanh vắng và bình yên trong bầu khí cầu nguyện. Tôi có thói quen cầu nguyện
ngoài trời để được tiếp xúc với thiên nhiên, nhìn cây cỏ hoa lá côn trùng để tạ
ơn Chúa đã ban cho thế giới xinh đẹp này. Nhiều khi không cần một đề tài để cầu
nguyện, mà chỉ là lời tạ ơn. Sống trong tâm tình biết ơn, tôi thấy mình thật hạnh
phúc. Mỗi ngày, tôi tạ ơn Chúa vì mình còn được sống, được hít thở bầu không
khí trong lành, được có đôi mắt sáng để quan sát vạn vật, được Chúa ưu ái chọn
gọi, được sống tình chị em với nhau trong lòng Mẹ Hội Dòng. Bôn ba nhiều nơi, tất
bật với bao công việc, Tu viện Nhà mẹ chính là nơi dừng chân để nghỉ ngơi, như
những đứa con đủ lông đủ cánh bay xa để đi xa, thì những ngày lễ tết giỗ chạp vẫn
muốn quây quần bên mâm cơm đượm tình gia đình, ấm áp tình thương của mẹ cha,
nơi mà thuở ấu thơ đã được nuôi lớn, nơi có bát canh cua, dưa muối, dĩa cá kho
mặn, đơn giản nhưng ấm tình quê, tình gia đình.
Những ngày tháng tất bật
với sứ vụ, đôi lúc hồn không đủ tĩnh lặng để trở về, nên vẫn còn đó những hơn
thua được mất, đôi lần cũng đánh mất chính mình bởi tham sân si, rồi những lo
âu tất bật. Được trở về nơi đây, tôi gác lại tất cả. Ngồi trong Nhà Nguyện nhìn
lên, tất cả chị em dù có làm công việc khác nhau, có hơn thua đấy, nhưng ở nhà
nguyện, ai cũng như ai, cũng một màu lúp, cũng bộ áo dòng như nhau. Thế thì hơn
thua để làm gì. Trước mặt Chúa chỉ hơn nhau ở lòng mến được bao nhiêu. Trạm dừng
chân mỗi tháng, mỗi năm rồi sẽ dẫn mỗi người đến trạm dừng chân nơi khu An Dưỡng,
nơi mà dù trước đây chị này chị kia đã từng làm đến chức vụ lớn lao, hay có chị
chỉ là người làm vườn, thì về trạm dừng này, tất cả đều như nhau. Có những dì
đã lẫn chẳng biết mình là ai. Có dì đã từng đi hết nơi này nơi kia rồi giờ cũng
nằm liệt một chỗ. Ấy, đời người ngắn ngủi, vênh vang để làm gì, hơn thua mà chi
để rồi về đến đây ai cũng như ai thôi.
Tôi bước xuống lối đi giữa
hai hàng cọ già rợp bóng xanh mát. Hàng cọ này đã có trên 20 năm tuổi, hồi tụi
tôi ở Nhà Tập đã có nó rồi. Trên thân cây chi chít những vết nứt trên lớp vỏ xù xì, tôi
nghiệm rõ vết hằn của thời gian. Những cây cọ vẫn cứ thế vươn cao và xòe tán
rộng hơn nữa, mặc kệ những ngày nắng cháy da hay những hôm mưa gió bão bùng.
Tôi thì không thể. Tôi chỉ tìm thấy nơi bản thân mình và những cây cọ một điểm
chung: dấu vết của thời gian hằn trên da thịt. Tôi về lại chốn xưa, nhìn thấy
những đổi thay. Nhưng thấp thoáng đâu đó vẫn còn những điều không thể thay đổi
được. Bầu khí thanh vắng của Tu viện là một không gian lý tưởng cho tâm hồn
được nuôi dưỡng. Lối này dẫn ra nghĩa trang, đó là trạm dừng
cuối cùng của một đời người. Đất Thánh của Hội Dòng đã có hơn ba mươi ngôi mộ,
hầu hết là của quý dì đã có công gầy dựng Hội dòng từ thuở khai sinh. 19 năm trước,
khi còn là một Tập sinh, nơi đây là địa điểm tôi ra cầu nguyện mỗi ngày, đặc biệt
vào tháng 11, mùa Vọng và mùa Chay. Thường mỗi lần về Nhà Mẹ tôi tranh thủ ra
đây đọc một kinh cho các vị tiền bối- những dì đã có công gầy dựng Hội Dòng từ
thời khó khăn với biết bao mồ hôi nước mắt để tôi được hưởng như bây giờ. Nhìn
phần mộ để chiêm nghiệm về sự mong manh của kiếp người. Tôi vốn rất nhút nhát
và hay sợ bóng đêm, sợ một mình. Thế mà không hiểu sao tôi lại rất thích nơi
này. Khi còn sống, người ta thường tìm cho mình một chỗ đứng, một ghế ngồi. Còn
tôi, tôi thấy điều ấy không quan trọng cho bằng hãy nghĩ đến chỗ nằm của mình
sau này. Hãy sống làm sao để chỗ nằm sau cũng được nhẹ nhàng, và khi ra đi có
thể nở một nụ cười mãn nguyện vì rằng mình đã sống đủ yêu thương và hạnh phúc
cho một cuộc đời viên mãn.
Mười chín năm trôi qua từ ngày nhập Tập viện.
Mọi thứ nơi đây đã đổi thay nhiều. Nhưng thấp thoáng đâu đó vẫn còn những điều
không thể thay đổi được. Bầu khí thanh vắng của khu Tập viện và lối ra khoảng
vườn rộng lớn phía sau cùng khu Đất Thánh là một không gian lý tưởng cho tâm
hồn được nuôi dưỡng. Chính trong bầu khí ấy, những năm tháng tuổi trẻ của tôi
được dưỡng nuôi, tâm hồn tôi được ngụp lặn trong những suy tư, đắm chìm trong
những chiêm nghiệm. Tôi nhớ nơi này vì hai năm tập viện với
quá nhiều kỷ niệm. Khu nhà cũ tôi ở nay đã thành Khu an dưỡng, nhưng tôi vẫn
thích nơi này vì đó là khu đất chứa đầy yêu thương của những ngày tháng nuôi dưỡng
tôi trong ơn gọi. Mọi sự đã khác, hình như chỉ còn cây mận và cái chòi nhỏ,
cũng ít cây nhãn còn sót lại là di tích của ngày cũ thôi. Chiếc chòi nơi tôi
hay cầu nguyện. Cây mận này mười chị em tôi hay trèo lên hái cho nhau ăn, và rượt
đuổi tôi xung quanh gốc cây vì tôi hay bày trò những câu đố vui mà lời giải thật
vô duyên. Mấy cây nhãn này mỗi khi dì làm vườn chưa kịp thu hoạch thì tụi tôi
đã hái gần hết. Nơi này bao nụ cười giòn tan cùng những giọt nước mắt. Ôi, biết
bao nhiêu kỷ niệm yêu dấu. Nhìn cảnh xưa thì kỷ niệm lại hiện về như từng con
sóng nối tiếp nhau xô vào bờ ký ức vậy. Dì phụ tá- người mà tụi tôi nghịch ngợm
gọi bằng tiếng “Bố” thân thương đã qua đời vì căn bệnh nan y. Dì ấy rất yêu
thương ân cần lo cho tụi tôi từng chút một. Còn dì Giáo, tụi tôi gọi bằng “Mẹ”
vì sự ân cần nhẹ nhàng, luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu từng đứa một.
Giờ đây mỗi lần về nhà chính, chị em tôi hầu như đều ghé thăm dì. Một người
Giáo rất gương mẫu, yêu thương tụi tôi như con ruột. Vì lớp tụi tôi là lớp Tập
đầu tiên được dì coi sóc sau nhiều khóa dì làm phó tổng phụ trách. Tôi cũng
không quên Cha Giuse linh hướng của lớp, cũng là Cha nghĩa phụ của tôi, đã ân cần
đồng hành gắn bó với Lớp Têrêsa Calcutta chúng tôi trong suốt 2 năm ròng, và hiện
vẫn đồng hành với các Lớp Tập và cả Hội dòng cho đến hôm nay.
Tôi về lại những góc vườn, những nơi chốn tôi từng hay đứng
một mình để suy niệm trong những buổi chiều thanh vắng, hay những hôm mưa xối
xả, gió rít từng cơn. Vẫn những hàng cây bao năm đứng bên nhà nguyện chịu mưa
chịu nắng; vẫn những chậu hoa tuy bé nhỏ nhưng vẫn có nét kiêu sa; vẫn đấy toà
giải tội lặng im bên góc cột, với tấm khăn che trắng đã ngả màu. Tôi thấy bóng
dáng của chính mình trong dòng thời gian bên những khung cảnh ấy. Bầu trời vẫn
thế, hàng cây vẫn thế, mái nhà vẫn thế, nhưng tôi thì đã không còn là tôi của
ngày trước. Những thứ kia vẫn chỉ là những vật vô tri vô giác, không hờn giận,
cũng chẳng vui buồn. Tôi dần lớn lên, trưởng thành hơn, va vấp hơn, xù xì hơn,
giống hệt với vỏ của những cây dầu trước cổng. Thế giới mà tôi đã trải qua thật
khác xa với những gì mà tôi đã mường tượng ngày trước. Tôi đã chẳng còn là cô
bé Tập sinh non nớt ngày nào, chẳng còn là một khấn sinh trẻ năng đọc sách suy
niệm bên hàng cây đó, chẳng còn là một tu sĩ trẻ đứng chắp tay sau lưng nhìn
những hạt mưa rơi lốp đốp trên những mái tôn gỉ sét. Những hình ảnh của quá khứ
như những thước phim lướt qua trong tâm trí. Tôi chẳng thể thay đổi được gì.
Không gì cả. Tất cả giờ đây chỉ còn là những vết hằn trên da thịt, và cả trong
tâm trí. Nhưng tất cả làm nên con người tôi của ngày hôm nay. Trở về để tìm cơ
hội quay lại những năm tháng êm đềm được bao bọc trong vòng tay của mẹ Hội
dòng. Những năm tháng đó cứ mãi êm đềm. Nhưng con người không như sỏi đá, con
người vẫn phải lớn lên, chấp nhận những va vấp để học lấy những kinh nghiệm.
Trở về cũng là lúc tập lấy sự buông bỏ. Tôi không thể cứ nắm giữ mãi tất cả
được.
19 năm trôi qua, đến nay
cũng đã 17 năm Khấn. Tạ ơn Chúa vì bao điều kỳ diệu Ngài đã thực hiện.
Đêm nay, đứng bên khu An
dưỡng nhìn những ánh đèn lấp lánh sau những khung cửa của Tập viện, những ký ức
ngày xưa chợt quay về.
Êm ả!
Bình yên!
Bình
Yên 22.8.2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét